Theo quy định tại Khoản 4 Điều 39 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm: “4. Đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ: a) Đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, ... phải đăng ký quy tắc, điều khoản, biểu phí với Bộ Tài chính trước khi triển khai... b) Đối với các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ khác, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, ... được phép chủ động xây dựng quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm”.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 43 Luật Kinh doanh bảo hiểm: “2. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị được giao kết, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng”.
Theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 49 Luật Kinh doanh bảo hiểm: “Điều 49. Trách nhiệm chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn: 1. Trong trường hợp người thứ ba có lỗi gây thiệt hại cho người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm.
2. Trong trường hợp người được bảo hiểm từ chối chuyển quyền cho doanh nghiệp bảo hiểm, không bảo lưu hoặc từ bỏ quyền yêu cầu người thứ ba bồi thường thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền khấu trừ số tiền bồi thường tuỳ theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm”.
Việc giải quyết bồi thường bảo hiểm (số tiền bồi thường, phương thức bồi thường, hồ sơ bồi thường) đối với hợp đồng bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm và quy định pháp luật.