Triển vọng phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Triển vọng phát triển kinh tế số ở Việt Nam 22/08/2024 11:34:00 1359

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Triển vọng phát triển kinh tế số ở Việt Nam

22/08/2024 11:34:00

ThS. Nguyễn Thị Đăng Thu

Khoa Lý luận chính trị - Trường Đại học Đại Nam
 

(Theo tapchitaichinh.vn) Hiện nay, kinh tế số là xu thế phát triển tất yếu của các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển các thành phố thông minh, hoàn thiện cơ chế, chính sách và đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, chuyển đổi thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số. Bài viết đánh giá kết quả phát triển kinh tế số ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế số ở nước ta phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Phát triển kinh tế số giai đoạn 2020 - 2023

Nhận thức được tầm quan trọng của nền kinh tế số (KTS) và xu thế phát triển trong tương lai, những năm qua, cơ quan có thẩm quyền nhiều chủ trương, chính sách nhằm chuyển đổi nền kinh tế truyền thống sang nền KTS. Tiêu biểu như: Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 26/5/2016 về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư...

Triển khai chính sách trên, thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động phát triển kinh tế và đạt được những kết quả bước đầu. Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á - Tiếng gầm thập kỷ XX: Thập kỷ kỹ thuật số Đông Nam Á” (2021) công bố cho thấy, KTS Việt Nam có trị giá khoảng 21 tỷ USD, cao gấp 7 lần so với năm 2015; trên 95% doanh nghiệp kỹ thuật số chấp nhận thanh toán qua internet; 79% sử dụng hình thức chuyển tiền kỹ thuật số và 67% chấp nhận cho vay trên internet… Một trong những kết quả đáng chú ý là tỷ lệ học sinh trung học phổ thông học trực tuyến chiếm 79,7%, cao hơn 67,5% so với mức trung bình chung của các nước thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).

Thực tiễn cho thấy, đến hết năm 2021, có trên 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp hình thành, trên 40 quỹ tổ chức đầu tư mạo hiểm, mạng lưới đầu tư thiên thần. Các hoạt động quản lý nhà nước đã có những bước tiến mạnh mẽ chuyển từ phương thức truyền thống sang ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển từ văn bản giấy sang môi trường số.

Năm 2022, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã được kết nối liên thông với 11 bộ, ngành; 68 triệu thẻ căn cước gắn chíp điện tử đã được cấp; triển khai một số ứng dụng của thẻ căn cước phục vụ người dân đi khám chữa bệnh, rút tiền tại các cây ATM... Dịch vụ công trực tuyến được triển khai ngày càng hiệu quả, sâu rộng. Theo đánh giá của Bộ Thông tin và Truyền thông, chỉ số chuyển đổi số của Việt Nam đã liên tục tăng từ 0,48 năm 2020 lên 0,61 vào năm 2021 và đạt 0,71 vào năm 2022.

KTS của Việt Nam tăng từ 0,26 năm 2020 lên 0,41 vào năm 2021 và đạt 0,64 vào năm 2022 tăng 56% là con số rất ấn tượng cho thấy, sự thay đổi vượt bậc của nền kinh tế được chuyển đổi và số hóa thành công trong năm 2022. Số liệu này của năm 2023 được Ủy ban Chuyển đổi số dự kiến công bố vào tháng 8/2024.

2023 là năm đánh dấu nhiều điểm sáng của chuyển đổi số Việt Nam trên mọi phương diện, đặc biệt là sự tăng trưởng của KTS. Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) xếp hạng chỉ số Đổi mới sáng tạo của Việt Nam năm 2023 đứng thứ 46/132, tăng 2 bậc so với năm 2022; liên tiếp duy trì trong nhóm 50 nước dẫn đầu.

Tốc độ phát triển KTS của Việt Nam được đánh giá là nhanh nhất Đông Nam Á trong 2 năm liên tiếp (2022 đạt 28%, 2023 đạt 19%), cao gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Điển hình là: Thương mại điện tử tăng 11%, KTS du lịch tăng 82%, thanh toán số tăng 19% (theo báo cáo của Google, Temasek). Tỷ trọng KTS trong GDP Việt Nam năm 2023 đạt 12,33%.

Nhìn chung, giai đoạn 2020 - 2023, hoạt động KTS ngày càng phát triển và có những đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Theo kết quả đo lường của Tổng cục Thống kê, tỷ trọng giá trị tăng thêm của KTS trong GDP các năm từ 2020 - 2023 lần lượt là 12,66%, 12,88% 12,63% và 12,33%; trong đó, ngành KTS lõi đóng góp 7,42% (chiếm 60,19%), số hóa các ngành khác đóng góp 4,91% (chiếm 39,81%). Năm 2023, mặc dù tỷ trọng KTS trong GDP giảm nhẹ (đạt 12,33%), do ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm do nhu cầu thế giới giảm.

Bên cạnh đó, ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 khiến các hoạt động kinh tế - xã hội bị gián đoạn, dẫn đến sự sụt giảm của một số ngành KTS như: Thương mại điện tử, du lịch trực tuyến... Dù vậy, tỷ trọng KTS trong GDP Việt Nam vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, tỷ trọng KTS trong GDP của Việt Nam cao hơn so với Thái Lan (chiếm 12,1%), Indonesia (chiếm 8,3%), Philippines (chiếm 6,9%), Singapore (chiếm 17,3%), Malaysia (chiếm 23,1%). Điều này thể hiện sự nỗ lực của Chính phủ trong việc đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, hoạt động số hóa của các ngành kinh tế ngày càng được tăng cường.

Phát triển kinh tế số trong quý I/2024

Nếu như KTS giai đoạn 2020 - 2023 được cho là giai đoạn đặt nền tảng phát triển thì năm 2024 được coi là đánh dấu cho bước ngoặt đột phá trong phát triển KTS ở Việt Nam. Ngay trong quý I/2024, doanh thu công nghiệp công nghệ thông tin đạt gần 36,3 tỷ USD, tăng 17,7%; xuất khẩu sản phẩm công nghệ thông tin đạt 31 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Hiện có 8,2 triệu khách hàng sử dụng Mobile Money, tăng 2,2 lần so với cùng kỳ năm 2023, trong đó hơn 5,8 triệu khách hàng tại vùng nông thôn, miền núi; 100% các cơ sở khám chữa bệnh có dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt; 77% người dân trưởng thành có tài khoản thanh toán tại ngân hàng và trên 1 triệu đối tượng chính sách đã nhận trợ cấp an sinh xã hội qua tài khoản.

Theo báo cáo tại Phiên họp lần 8 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số ngày 24/4/2024, đã có gần 14,6 triệu tài khoản và hơn 46,2 triệu hồ sơ nộp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; gần 26,8 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến với số tiền hơn 12,9 nghìn tỷ đồng. Triển khai 41/53 dịch vụ công thiết yếu, tăng 5 dịch vụ công thiết yếu so với cuối năm 2023, qua đó tiết kiệm cho Nhà nước, xã hội gần 3,5 nghìn tỷ đồng.

Cũng tại phiên họp này, Ủy ban Chuyển đổi số Quốc gia đã đề ra Kế hoạch hoạt động năm 2024 xác định trọng tâm của chuyển đổi số quốc gia với chủ đề "Phát triển kinh tế số với 4 trụ cột công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số, dữ liệu số - Động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững", phấn đấu tốc độ tăng trưởng KTS nền tảng từ 20 - 25% và tổng doanh thu lĩnh vực này đạt 40 tỷ USD, từ đó tạo đà cho các mục tiêu chiến lược năm 2025 đề ra trong Chiến lược quốc gia về phát triển KTS và xã hội số của Việt Nam. Với những con số ấn tượng đạt được trong 4 tháng đầu năm 2024, Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là một trong nhóm những quốc gia có tiềm năng phát triển KTS của thế giới.

Những thuận lợi, khó khăn đặt ra cho kinh tế số Việt Nam

Bảng 1: Kết quả đo lường đóng góp giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP các năm 2020 2023

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Thuận lợi

Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển KTS, bao gồm cả việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, hỗ trợ các start-up công nghệ, đầu tư vào giáo dục nhằm phát triển KTS hiệu quả, bền vững.

Thứ hai, Việt Nam có lực lượng lao động trẻ, năng động với 40% dân số dưới 25 tuổi, nhờ đó, dễ dàng tiếp thu những kiến thức và kỹ năng mới, trong đó có kiến thức và kỹ năng số. Đây chính là một trong những chìa khóa quan trọng để thúc đẩy KTS phát triển trong thời gian tới.

Thứ ba, nền tảng hạ tầng KTS của Việt Nam đã có những thuận lợi nhất định cho việc chuyển đổi và ứng dụng số như: Hạ tầng mạng viễn thông, hạ tầng công nghệ thông tin và internet phát triển nhanh chóng, bao phủ rộng khắp. Tỷ lệ người dân sử dụng internet và điện thoại thông minh cao, có tốc độ tăng trưởng nhanh.

Thứ tư, các hình thức của KTS ở Việt Nam phát triển đa dạng và có xu hướng phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại đến giao thông, ngân hàng, y tế, giáo dục, du lịch, giải trí, quảng cáo và các dạng ứng dụng trực tuyến... Trong khi các thương hiệu nổi tiếng thế giới đang đổ bộ mạnh mẽ vào Việt Nam như: Alibaba, Amazon, Ebay, Shopee... thì các trang thương mại điện tử cũng đang nở rộ như Lazada Việt Nam, Tiki, Sendo, FPT Shop, Điện máy xanh, Thế giới di động...; từ đó thay đổi xu hướng và hành vi mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam.

Thứ năm, cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh và một nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, cộng đồng start-up ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp mới và các dự án sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ. Nhiều start-up Việt Nam tập trung vào phát triển trí tuệ nhân tạo (AI). Ví dụ: Zalo AI Research Institute, một phần của Zalo Group đã nghiên cứu và phát triển các ứng dụng AI trong lĩnh vực nhận diện giọng nói, xử lý ngôn ngữ tự nhiên và phân tích hình ảnh. Điển hình như: Momo, một ứng dụng thanh toán di động, đã trở thành một trong những ứng dụng phổ biến nhất trong việc thanh toán trực tuyến và trực tiếp.

Nhận định về tiềm năng phát triển KTS ở Việt Nam, các chuyên gia cho rằng, để đạt mục tiêu KTS chiếm tối thiểu 20% GDP vào năm 2025 như Chiến lược quốc gia về phát triển KTS, xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã đề ra, KTS phải tăng trưởng gấp 3 - 4 lần tăng trưởng GDP, tức là khoảng 20 - 25%/năm, trong khi phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức cần có giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Khó khăn

Bên cạnh kết quả đạt được trên, việc đẩy mạnh phát triển KTS của nước ta trong thời gian qua cũng gặp phải một số khó khăn, thách thức sau:

Một là, hệ thống thể chế, chính sách cũng như các thiết chế thực thi, giải quyết tranh chấp liên quan đến phát triển KTS còn thiếu, chưa giải quyết triệt để những khó khăn vướng mắc. Do sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, KTS cùng các phương thức kinh doanh và các ý tưởng sáng tạo mới xuất hiện đã làm cho các cơ quan quản lý nhà nước gặp phải không ít khó khăn trong quản lý và khai thác tiềm năng phát triển KTS.

Hai là, hệ thống giáo dục Việt Nam chưa theo kịp xu thế phát triển của KTS, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều hạn chế cả về chuyên ngành đào tạo, kỹ năng làm việc... Mặt khác, sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông là một điểm nghẽn lớn cho phát triển KTS.

Ba là, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt Nam đã và đang chịu sự cạnh tranh khốc liệt của DN nước ngoài. KTS nói chung và thương mại điện tử nói riêng vẫn có một khoảng cách lớn giữa thành thị với các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của nước ta.

Bốn là, Việt Nam có xuất phát điểm phát triển KTS chậm hơn so với các nước trong khu vực; nhận thức, kiến thức của nhiều cán bộ, doanh nghiệp và người dân về KTS còn chưa đồng đều ở các cấp, các ngành dẫn đến sự chuyển đổi số còn hạn chế là rào cản lớn làm chậm xu hướng số hóa nền kinh tế Việt Nam.

Năm là, bản chất của KTS là tạo ra phương thức và không gian tăng trưởng mới, nhưng bức tranh KTS Việt Nam lại cho thấy hàm lượng đổi mới sáng tạo còn khá thấp, khi đóng góp vào tăng trưởng KTS chủ yếu đến từ yếu tố công nghệ thông tin và truyền thông (chiếm 70%), 30% còn lại là đóng góp từ các ngành số hóa, đổi mới sáng tạo... mức độ số hóa của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực ASEAN và châu Á. Việt Nam chỉ đứng thứ 70/141 quốc gia, với mức điểm là 12,06/25 điểm tối đa, chỉ cao hơn không đáng kể so với trung bình của thế giới (11,90 điểm).

Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Để khắc phục những khó khăn, thách thức đặt ra đối với KTS Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung thực hiện quyết liệt một số giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện thể chế phát triển KTS. Nhà nước cần sớm xây dựng khung pháp lý, chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia phát triển KTS với nhiều sản phẩm mới như: Công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới; chính sách hợp lý về bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ. Hoàn thiện quy định pháp luật và cơ chế quản lý phù hợp với các ngành có mô hình kinh doanh số.

Hai là, phát triển hạ tầng kỹ thuật. Đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng kỹ thuật số như mạng lưới internet, hạ tầng viễn thông và điện toán đám mây để tạo ra một môi trường kinh doanh số phát triển và cung cấp các dịch vụ trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp.

Ba là, nâng cao năng lực kỹ thuật số cho doanh nghiệp và người lao động. Chính phủ cần hỗ trợ nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, không ngừng bồi dưỡng, phổ biến, trang bị kiến thức cho đội ngũ doanh nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và xu thế của Cách mạng công nghiệp 4.0. Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo và trao đổi khoa học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông qua các chương trình đào tạo gắn với các xu thế công nghệ mới như IoT, AI, công nghệ robot…, bảo đảm phát triển bền vững KTS ở Việt Nam.

Bốn là, tăng cường các biện pháp bảo mật an toàn, an ninh thông tin và quản lý dữ liệu. Thường xuyên rà soát, phát hiện để kịp thời khắc phục các lỗ hổng bảo mật có nguy cơ gây mất an ninh thông tin ở Việt Nam trên toàn hệ thống, bổ sung thiết bị, phần mềm chuyên dụng kiểm soát an ninh, an toàn thông tin trên môi trường mạng viễn thông, internet...

Năm là, sử dụng công nghệ số để tối ưu hóa sản xuất và quản lý trong các ngành công nghiệp truyền thống như nông nghiệp, sản xuất và dịch vụ. Đồng thời, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh; tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu của một số ngành, lĩnh vực mới như chíp bán dẫn, công nghệ cao, năng lượng tái tạo là những động lực mới, trở thành trụ cột cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững.

Sáu là, xây dựng một môi trường kinh doanh số mạnh mẽ, phát triển các dịch vụ công tiện ích. Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh trực tuyến, bao gồm cải thiện hạ tầng thanh toán và thúc đẩy phát triển các hệ thống thanh toán trực tuyến an toàn và tiện ích. Xây dựng dịch vụ công trực tuyến tiện ích và hiệu quả để giảm bớt gánh nặng thủ tục hành chính đối với người dân và doanh nghiệp; thực hiện đồng bộ số hóa bộ máy quản lý nhà nước các cấp.

Khẩn trương xây dựng chiến lược phát triển KTS, với các giải pháp toàn diện, đồng bộ, kế hoạch và lộ trình thực hiện chi tiết, để tạo động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế như: Công nghệ cao, chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo; kinh tế tuần hoàn; năng lượng tái tạo tạo bước đột phá cho phát triển bền vững KTS ở Việt Nam trong thời gian tới.

Kết luận

Ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, phát triển KTS là xu thế tất yếu, làm thay đổi rất nhanh cấu trúc kinh tế thế giới ngay trong thập kỷ này. Trong bối cảnh đó, thời gian tới, các chủ thể tiếp tục thay đổi tư duy đột phá, nắm bắt thời cơ kiến tạo các động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững để tận dụng cơ hội. Phát triển KTS được xem là biện pháp tối ưu nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để đạt được mục tiêu này, thời gian tới phải bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, phù hợp khả năng thực hiện của các bộ, ngành, địa phương gắn với khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất, đưa Việt Nam trở thành nền KTS phát triển hàng đầu tại khu vực, đóng góp tích cực vào thực hiện mục tiêu đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”;

2. Bộ Công Thương (2020), Sách Trắng thương mại điện tử Việt Nam năm 2020, Cục Thương mại điện tử và kinh tế số;

3. Nguyễn Mạnh Hùng (2021), Kinh nghiệm phát triển kinh tế số ở một số quốc gia và giá trị tham khảo với Việt Nam, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu-trao-doi/kinh-nghiem-phat-trien-kinh-te-so-o-mot-so-quoc-gia-va-gia-tri-tham-khao-voi-viet-nam-%E2%80%8B.html;

4. Nguyễn Thế Bính (2022), Phát triển kinh tế số tại Việt Nam, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ điện tử, https://thitruongtaichinhtiente.vn/phat-trien-kinh-te-so-tai-viet-nam-42230.html.

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%