Phân tích lạm phát tháng 10/2024 của một số nền kinh tế lớn
(Ấn Độ, Nga, Ý)
Lạm phát Ấn Độ cao hơn nhiều so với dự báo
Tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Ấn Độ đã tăng lên 6,21% vào tháng 10 năm 2024 từ mức 5,49% của tháng trước, cao hơn nhiều so với kỳ vọng của thị trường là 5,81%, đánh dấu tỷ lệ lạm phát cao nhất trong hơn một năm. Kết quả này cũng đánh dấu mức tăng giá của Ấn Độ rời xa mục tiêu 2 điểm phần trăm của RBI so với mức 4%, càng kéo dài kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất cuối cùng. Lạm phát tăng đối với thực phẩm (10,87% so với 9,24% trong tháng 9), chiếm gần một nửa giỏ giá, trong bối cảnh giá cao hơn và tăng hơn nữa đối với rau quả (42,18% so với 35,99%), dầu và chất béo (9,51% so với 2,47%) và thịt và cá (3,17% so với 2,66%). Ngược lại, lạm phát đối với nhà ở cũng tăng (2,81% so với 2,78%), trong khi giảm phát đối với nhiên liệu và ánh sáng chậm lại (-1,39% so với -1,61%). So với tháng trước, CPI của Ấn Độ tăng 1,34%.

Đồng rupee của Ấn Độ giữ gần mức thấp kỷ lục 84,4/USD vào giữa tháng 11, kiềm chế không kéo dài đà lao dốc từ đầu tháng do triển vọng của Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ bù đắp cho đồng đô la Mỹ tăng vọt. Lạm phát trong nước tăng lên 6,2% trong tháng 10, lần đầu tiên rời khỏi mục tiêu của RBI sau hơn một năm và làm trì hoãn kỳ vọng về việc Ngân hàng Trung ương bắt đầu cắt giảm lãi suất. Trong khi đó, lo ngại rằng nền kinh tế Ấn Độ sẽ không thể duy trì đà tăng trưởng cao trong những năm tới đã khiến các nhà đầu tư giảm vị thế trên thị trường vốn trong nước.

Lạm phát Nga giảm tháng thứ 2 liên tiếp
Tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Nga đã giảm tháng thứ hai xuống 8,5% vào tháng 10 năm 2024, mức thấp nhất kể từ tháng 5, giảm nhẹ so với mức 8,6% trong tháng 9. Các nhà phân tích đã kỳ vọng nó sẽ duy trì ổn định ở mức 8,6%. Tuy nhiên, lạm phát vẫn cao hơn mục tiêu 4% của CBR. Giá thực phẩm tăng chậm lại một chút (9% so với 9,2% trong tháng 9), trong đó trái cây và rau quả (13,5% so với 14%) và các sản phẩm phi thực phẩm (6,5% so với 6,6%), trong khi giá dịch vụ tăng nhanh (9,7% so với 9,5%). Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng đã tăng 0,8% trong tháng 10, tăng từ mức 0,5% của tháng trước nhưng thấp hơn một chút so với ước tính của thị trường là tăng 0,9%.

GDP của Nga tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước trong quý 3 năm 2024, mức tăng trưởng chậm nhất kể từ quý 1 năm 2023, trong bối cảnh các tác động cơ bản suy yếu từ cuộc khủng hoảng kinh tế của Nga do các lệnh trừng phạt của phương Tây. Sự chậm lại cũng là do nhu cầu hàng hóa của Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Nga giảm do nền kinh tế của nước này chậm lại. Con số này cao hơn ước tính của Bộ Tài chính về mức tăng trưởng 2,9% và thấp hơn một chút so với dự báo tăng trưởng 3,2% của Ngân hàng Trung ương.

Lạm phát Ý thấp hơn nhiều so với mức trung bình của Eurozone
Tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Ý đã tăng lên 0,9% vào tháng 10 năm 2024 từ mức 0,7% của tháng trước, phù hợp với ước tính sơ bộ và thấp hơn kỳ vọng ban đầu của thị trường là 1%. Kết quả cho thấy lạm phát ở Ý vẫn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của Eurozone trong quý 4, góp phần vào việc cắt giảm lãi suất mà ECB đã đưa ra trong các cuộc họp gần đây nhất. Lạm phát tăng mạnh đối với thực phẩm chưa qua chế biến (3,4% so với 0,3% trong tháng 9) và chưa qua chế biến (1,7% so với 1,5%). Ngoài ra, lạm phát tăng đối với dịch vụ vận tải (2,8% so với 2,4%), do giá năng lượng không được quản lý giảm với tốc độ chậm hơn (-10,2% so với -11%) và ảnh hưởng đến chi phí nhiên liệu. Đổi lại, các hiệu ứng cơ bản đã khiến lạm phát năng lượng được điều tiết giảm đáng kể (3,9% so với 10,4%). Trong khi đó, lạm phát cơ bản không thay đổi so với tháng trước ở mức 1,8%. So với tháng trước, chỉ số CPI của Ý không thay đổi.

Tỷ lệ thất nghiệp ở Ý giảm xuống 5,8% vào tháng 10 năm 2024, thấp hơn kỳ vọng của thị trường là 6,1% và giảm so với mức điều chỉnh giảm 6% trong tháng trước. Đây là mức thấp nhất kể từ khi hồ sơ bắt đầu vào tháng 1 năm 1983, kéo dài thời kỳ thắt chặt của thị trường lao động Ý. Số người thất nghiệp giảm 58.000 xuống còn 1.473.000, mức thấp nhất kể từ tháng 6 năm 2007. Trong khi đó, số lượng việc làm ròng tăng 47.000 lên 24.092.000. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giữ ổn định ở mức 66,4%, mức thấp nhất trong 19 tháng.
