Hỏi: |
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 9/12/2000: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10: “2. Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ: a) Giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm”;
- Theo quy định tại điểm a Khoản 4 Điều 39 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016: “4. Đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ: a) Đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, chi nhánh nước ngoài phải đăng ký quy tắc, điều khoản, biểu phí với Bộ Tài chính trước khi triển khai....”;
- Theo quy định tại điểm b Khoản 5 Điều 39 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016: “5. Quy tắc, điều khoản, biểu phí do doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài xây dựng phải bảo đảm: b) Ngôn ngữ sử dụng trong quy tắc, điều khoản bảo hiểm phải chính xác, cách diễn đạt đơn giản, dễ hiểu, các thuật ngữ chuyên môn cần được định nghĩa rõ trong quy tắc, điều khoản bảo hiểm”;
Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm không có quy định về mức khấu trừ. Theo quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô các DNBH phi nhân thọ đăng ký và được Bộ Tài chính chấp thuận, mức khấu trừ là số tiền được ấn định trên Giấy chứng nhận bảo hiểm và Hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm phải tự gánh chịu trong mỗi và mọi vụ tổn thất bộ phận của xe tham gia bảo hiểm vật chất xe tại DNBH. Mức khấu trừ tối thiểu là 500.000 (năm trăm ngàn) đồng/vụ.