Hỏi đáp CSTC

Hỏi:
Kính chào BTC, Giám đốc của Công ty chúng tôi (Sau đây gọi tắt là "GĐ") là người Nhật và sang VN làm việc theo bổ nhiệm từ ngày 01/04/2018. Trước đó, trong năm 2018 GĐ có 1 lần sang VN du lịch trong 5 ngày (từ 06/01/2018 - 10/01/2018) và 1 lần sang VN để khảo sát địa chỉ thuê nhà, trường học cho con trong 8 ngày (từ 01/03/2018 - 08/03/2018). Kể từ 01/04/2018 đến 31/12/2018, GĐ ở VN trong 120 ngày. Trước đó, tháng 5/2014 GĐ có sang VN lần đầu tiên để làm việc ở một công ty khác và về nước trong năm 2015. Trong năm 2014, GĐ đã ở VN dưới 183 ngày và Công ty trước đó cũng đã xác định tình trạng cư trú của GĐ trong 12 tháng liên tục kể từ tháng 5/2014 để kê khai & quyết toán thuế TNCN. Như vậy, chúng tôi muốn hỏi BTC về việc xác định tình trạng cư trú của GD và thời điểm bắt đầu tính thuế TNCN trong năm 2018 như sau: 1/ GD của chúng tôi thuộc trường hợp xác định tình trạng cư trú theo 12 tháng liên tục hay trong năm dương lịch 2018? Theo ý hiểu của Công ty chúng tôi thì Công ty cũ đã xác định tình trạng cư trú và kê khai thuế TNCN của GĐ chúng tôi theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên đến Việt Nam (tháng 5/2014) rồi, do đó việc xác định tình trạng cư trú của GĐ trong năm 2018 là theo số ngày có mặt tại VN trong năm Dương lịch 2018. Như vậy có đúng không? 2/ Thời điểm bắt đầu tính thuế TNCN cho GĐ chúng tôi là từ thời điểm được bổ nhiệm tại VN (01/04/2018) hay kể từ thời điểm đầu tiên sang VN để du lịch (06/01/2018)? Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn!
22/05/2019
Trả lời:

- Căn cứ Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.

+ Tại Khoản 1, Điều 1 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính nêu trên quy định:

“1. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:

Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, trong đó ngày đến và ngày đi được tính là một (01) ngày. Ngày đến và ngày đi được căn cứ vào chứng thực của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) của cá nhân khi đến và khi rời Việt Nam. Trường hợp nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày thì được tính chung là một ngày cư trú.

Cá nhân có mặt tại Việt Nam theo hướng dẫn tại điểm này là sự hiện diện của cá nhân đó trên lãnh thổ Việt Nam.

b) Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau:

b.1) Có nơi ở thường xuyên theo quy định của pháp luật về cư trú:

b.1.1) Đối với công dân Việt Nam: nơi ở thường xuyên là nơi cá nhân sinh sống thường xuyên, ổn định không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú theo quy định của pháp luật về

cư trú.

b.1.2) Đối với người nước ngoài: nơi ở thường xuyên là nơi ở thường trú ghi trong Thẻ thường trú hoặc nơi ở tạm trú khi đăng ký cấp Thẻ tạm trú do cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an cấp.

b.2) Có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của các hợp đồng thuê từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế, cụ thể như sau:

b.2.1) Cá nhân chưa hoặc không có nơi ở thường xuyên theo hướng dẫn tại điểm b.1, khoản 1, Điều này nhưng có tổng số ngày thuê nhà để ở theo các hợp đồng thuê từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế cũng được xác định là cá nhân cư trú, kể cả trường hợp thuê nhà ở nhiều nơi.

b.2.2) Nhà thuê để ở bao gồm cả trường hợp ở khách sạn, ở nhà khách, nhà nghỉ, nhà trọ, ở nơi làm việc, ở trụ sở cơ quan,... không phân biệt cá nhân tự thuê hay người sử dụng lao động thuê cho người lao động.

Trường hợp cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo quy định tại khoản này nhưng thực tế có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày trong năm tính thuế mà cá nhân không chứng minh được là cá nhân cư trú của nước nào thì cá nhân đó là cá nhân cư trú tại Việt Nam.

Việc chứng minh là đối tượng cư trú của nước khác được căn cứ vào Giấy chứng nhận cư trú. Trường hợp cá nhân thuộc nước hoặc vùng lãnh thổ đã ký kết Hiệp định thuế với Việt Nam không có quy định cấp Giấy chứng nhận cư trú thì cá nhân cung cấp bản chụp Hộ chiếu để chứng minh thời gian cư trú.”

+ Tại Điều 6 quy định: Kỳ tính thuế:

“1. Đối với cá nhân cư trú

a) Kỳ tính thuế theo năm: áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ tiền lương, tiền công.

Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế được tính theo năm dương lịch.

Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày nhưng tính trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam là từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế đầu tiên được xác định là 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Từ năm thứ hai, kỳ tính thuế căn cứ theo năm dương lịch.

          Ví dụ 3: Ông B là người nước ngoài lần đầu tiên đến Việt Nam từ ngày 20/4/2014. Trong năm 2014 tính đến ngày 31/12/2014, ông B có mặt tại Việt Nam tổng cộng 130 ngày. Trong năm 2015, tính đến 19/4/2015 ông B có mặt tại Việt Nam tổng cộng 65 ngày. Kỳ tính thuế đầu tiên của ông B được xác định từ ngày 20/4/2014 đến hết ngày 19/4/2015. Kỳ tính thuế thứ hai được xác định từ ngày 01/01/2015 đến hết ngày 31/12/2015...”

Căn cứ hướng dẫn nêu trên, trường hợp cá nhân là người Nhật Bản sang Việt Nam theo quyết định bổ nhiệm làm Giám đốc kể từ ngày 01/4/2018. Tuy nhiên ngày đầu tiên cá nhân đó có mặt tại Việt Nam là ngày 06/01/2018, vậy thời điểm  để xác định tình trạng cư trú và kỳ tính thuế của cá nhân đó là ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam tính từ ngày 06/01/2018 theo quy định tại Điều 1 Thông tư số 111/2013/TT-BTC nêu trên.

          Đối với trường hợp cụ thể, đề nghị độc giả cung cấp hồ sơ cụ thể và liên hệ với cơ quan thuế quản lý trực tiếp để được hướng dẫn.

Gửi phản hồi: