- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm, Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
- Theo quy định tại Điều 3, Điều 7 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới:
+ “Điều 3. “Bên thứ ba” là người bị thiệt hại về thân thể, tính mạng, tài sản do xe cơ giới gây ra, trừ những người sau:
a) Lái xe, phụ xe trên chính chiếc xe đó.
b) Người trên xe và hành khách trên chính chiếc xe đó.
c) Chủ sở hữu xe trừ trường hợp chủ sở hữu đã giao cho tổ chức, cá nhân khác chiếm hữu, sử dụng chiếc xe đó.
+ Điều 7: Phạm vi bồi thường thiệt hại:
1. Thiệt hại ngoài hợp đồng về thân thể, tính mạng và tài sản đối với bên thứ ba do xe cơ giới gây ra.
2. Thiệt hại về thân thể và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển hành khách do xe cơ giới gây ra.
- Tranh chấp trong quá trình bồi thường bảo hiểm là tranh chấp dân sự do các bên liên quan phối hợp giải quyết theo hợp đồng bảo hiểm và quy định pháp luật. Trường hợp người tham gia bảo hiểm không đồng ý với cách giải quyết bảo hiểm của DNBH thì có thể đưa vụ việc ra Tòa án giải quyết theo quy định tại Khoản 3 Điều 26 Luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13: “Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:…3. Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự…”.